Những NHÂN VẬT KHÁNH HÒA – NHA TRANG xưa đã được Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép trong sách “Đại Nam nhất thống chí”, “Đại Nam liệt truyện”…
Ngoài ra, Khánh Hòa – Nha Trang xưa còn có những nhân vật nổi danh trong thi cử, trong phong trào Cần Vương… mà chúng tôi sưu tầm được.
Những NHÂN VẬT NHA TRANG XƯA sẽ được trình bày ở phần huyện xưa nơi sinh quán của các vị, đó là HUYỆN VĨNH XƯƠNG. Huyện Vĩnh Xương xưa, hiện nay gồm có TP Nha Trang, huyện Cam Lâm, TP Cam Ranh và huyện Khánh Sơn Những nhân vật cũng được trình bày theo những nhân vật trích trong sách “Đại Nam nhất thống chí”, “Đại Nam liệt truyện”… những nhân vật khoa cử, những nhân vật trong phong trào Cần Vương ở trong huyện. Những nhân vật của Nha Trang cũng như trong tỉnh Khánh Hòa xưa đã góp phần tô điểm thêm bản sắc văn hóa – lịch sử của một vùng đất.
NHÂN VẬT ĐƯỢC GHI TÊN TRONG “ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ”, “ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN”…
TRẦN VĂN NĂNG ghi chép trong “Đại Nam nhất thống chí” sinh quán tại huyện Tân Định, thị xã Ninh Hòa hiện nay. Trong “Xứ Trầm Hương” của Quách Tấn cũng ghi như thế. Nhưng trong bài biên khảo về nhân vật này với tựa đề “Nhân vật Khánh Hòa: Tân Thành Quận Công Trần Văn Năng” của Đặng Quý Địch, đăng trên tuần báo VĂN ĐÀN, xuất bản ở Sài Gòn năm 1962, trang 50-53 có in kèm sắc phong của vua Minh Mạng và hình hai chiếc ấn đồng của Trần Văn Năng, nơi chú thích, tác giả bài báo ghi: “Về tiểu sử ông, chúng tôi dùng Gia phả họ Trần làm tài liệu”. Theo bài báo, tác giả cho biết: “Trần Văn Năng quán ở Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa. Sau lưu ngụ tại Bình Dương, tỉnh Gia Định“.
Trong “Non nước Khánh Hòa”, tác giả Nguyễn Đình Tư cũng cho rằng ông Trần Văn Năng “quê làng Vĩnh Điềm, huyện Vĩnh Xương, nay là xã Vĩnh Hiệp thị xã Nha Trang …” và có ghi chú “Hậu duệ của ông Trần Văn Năng hiện nay còn lại ở Bình Định”. Như vậy theo bài báo cũa Trần Quý Địch, viết theo Gia phả họ Trần, và theo Ông Nguyễn Đình Tư, ông Trần Văn Năng có quê quán tại làng Vĩnh Điềm, huyện Vĩnh Xương xưa tức là thôn Vĩnh Điềm, xã Vĩnh Hiệp, TP Nha Trang hiện nay.
Theo các tài liệu trên, ông Trần Văn Năng sinh năm 1763 ở TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, sau lưu ngụ tại Bình Dương, tỉnh Gia Định. Ông có sức mạnh và giỏi võ nghệ. Năm 1777, ông đầu quân, được lãnh chức Đội trưởng. Năm 1788, ông theo Nguyễn Ánh, được thăng Vệ úy. Năm 1799, ông theo Nguyễn Văn Thành ra đánh Quy Nhơn, sau khi hạ thành, ông được thăng làm phó Đô thống chế. Khi về Kinh, ông được thăng lên Đô thống chế. Năm Gia Long thứ 8 (1809), vào trấn thành Gia Định, không bao lâu có chiếu triệu về và năm sau, trở lại Gia Định. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823) sung chức Đổng lý đại thần, làm phó Tổng trấn Gia Định thành.
Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) về Kinh làm Tiền quân Đô thống chế. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) thăng Tiền quân thống phủ Chưởng phủ sự. Năm sau, được vua tấn phong tước Lương tài hầu. Khi Lê Văn Khôi khởi biến, ông lãnh ấn Binh khấu tướng quân đi dẹp. Sau đó, ông cầm quân đi dẹp quân Xiêm (Thái Lan), thu phục Hà Tiên, rồi tiến binh đánh lấy thành Nam Vang (Nông Pênh, tên gọi thủ đô của Campuchia hiện nay). Vua Xiêm cầu hòa. Khi hạ được thành Nam Vang, ông thọ bệnh, giao binh quyền cho Trương Minh Giảng, rồi kéo quân về Gia Định. Trên đường về, khi đến tỉnh An Giang thì mất. Ông mất ngày 11 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (19-2-1834), thọ 72 tuổi. Nhà vua truy tặng ông chức Thái phó, tấn phong Tân thành quận công, truyền chỉ các trấn từ Bình Thuận đến Kinh theo đường bộ thay phiên hộ tống linh cữu của ông về Kinh đô Huế để an táng. Ông được liệt vào thờ đền Hiền Lương.
NHÂN VẬT KHOA CỬ
► TRẦN TRỌNG HUỲNH người Phương Câu, huyện Vĩnh Xương (nay thuộc phường Xương Huân, TP Nha Trang) là một trong hai người đỗ cử nhân khoa thi năm Bính Ngọ, Thành Thái thứ 18 (1906) tại trường thi Bình Định, lúc đó ông 35 tuổi. Ông được bổ làm Huấn đạo, trông coi việc giáo dục ở huyện Vĩnh Xương.
NHÂN VẬT THAM GIA PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG TẠI KHÁNH HÒA DO TRỊNH PHONG LÃNH ĐẠO
►BA ANH EM ÔNG NGUYỄN KHANH, NGUYỄN DỊ, NGUYỄN LƯƠNG:
Ông NGUYỄN KHANH còn có tên là Nguyễn Giảng (gia phả chép Dãn), tên tự là Khanh, biệt hiệu Quí Hiên, sinh năm 1834 dưới triều Minh Mạng, người làng Võ Cạnh, tổng Xương Hà, huyện Phước Điền, phủ Diên Khánh, nay thuộc thôn Võ Cạnh, xã Vĩnh Trung, TP Nha Trang, đỗ tú tài khoa Quí Dậu (1873) dưới triều Tự Đức. Ứng nghĩa Cần Vương, Ông cùng Trịnh Phong, đứng lên chiêu mộ hào kiệt, dựng cờ nghĩa bình Tây. Ông Trịnh Phong được tôn làm Bình Tây đại tướng, lãnh đạo toàn thể nghĩa binh. Nguyễn Khanh được cử làm Tán tương quân vụ cùng hai ông em là NGUYỄN DỊ giữ chức Tham tán, ông NGUYỄN LƯƠNG giữ chức Kiểm biện, coi việc tuyển mộ binh sĩ, tiếp tế… Ông NGUYỄN DỊ còn có tên Hượt, sau đổi là Dị, tự Tử Kỳ, sinh năm 1843, đậu Tỉnh Học Sinh năm 1862 đời Tự Đức thứ 16.
Ông NGUYỄN LƯƠNG sinh năm 1852, tên Hứa, tự Minh Khê, đậu cử nhân khoa năm Đinh Dậu Thành Thái thứ chín (1897) tại trường thi Bình Định lúc 46 tuổi, được bổ làm Giáo thọ Ninh Hòa, rồi thăng Tri huyện Hòa Đa, Tri huyện Thanh Chương (Nghệ An). Năm 1885, Pháp đổ bộ lên Nha Trang, thế là cuộc kháng Pháp bắt đầu. Sau hơn một năm chiến đấu, thắng có, thua có, nghĩa quân trước sức mạnh của địch đã dần dần tan rã, lớp bị tử trận, lớp bị bắt, lớp lên núi lánh nạn, lớp ra đầu thú. Ông Nguyễn Khanh bị địch bắt cùng với 2 ông em. Chúng kết án tử hình ông Nguyễn Khanh, còn 2 ông em, chúng đày vào đảo Cam Ranh.

MỘ ÔNG BÀ NGUYỄN KHANH (Ảnh Thầy Ngô Văn Ban).
Ông Nguyễn Khanh bị địch chém đầu vào ngày 20.12.1886 lúc Ông 52 tuổi, tại Gò Chết Chém gần cầu Sông Cạn, huyện Diên Khánh. Còn 2 ông em là Nguyễn Dị và Nguyễn Lương sau được tha về. Ông Nguyễn Dị mất năm 1902, thọ 60 tuổi. Ông Nguyễn Lương mất năm 1928, thọ 77 tuổi. Hiện nay mộ của ông bà Nguyễn Khanh cùng với mộ ông bà Nguyễn Lương (mộ cải táng) tại nghĩa trang gia tộc Nguyễn ở thôn Võ Cạnh, xã Vĩnh Trung, TP Nha Trang, bên hương lộ liên thôn Võ Cạnh – Võ Dõng. Còn mộ của Ông Nguyễn Dị được cải tảng chân núi ở xã Diên Lâm, huyện Diên Khánh.

MỘ ÔNG BÀ NGUYỄN LƯƠNG (Ảnh Thầy Ngô Văn Ban).
Ở TP Nha Trang, còn có người cho rằng ông Trịnh Phong là người sinh quán ở Phú Vinh, xã Vĩnh Thạnh hiện nay. Tại Phú Vinh cũng có mộ, đền thờ nhưng chưa có tài liệu chính xác nên chưa đưa vào bài được.
Thầy Ngô Văn Ban nhà nghiên cứu dân gian
